Lịch Sử Ô Tô

Lịch Sử Ô Tô

Ô tô SUBARU đã khẳng định vị thế là một trong những hãng xe hàng đầu thế giới, nổi tiếng với chất lượng, độ bền và công nghệ tiên tiến. Hãy cùng AOZOOM khám phá lịch sử phát triển, ý nghĩa logo và những công nghệ vượt trội của SUBARU trong bài viết này.

Ô tô SUBARU đã khẳng định vị thế là một trong những hãng xe hàng đầu thế giới, nổi tiếng với chất lượng, độ bền và công nghệ tiên tiến. Hãy cùng AOZOOM khám phá lịch sử phát triển, ý nghĩa logo và những công nghệ vượt trội của SUBARU trong bài viết này.

Giai đoạn hình thành xe hơi động cơ đốt trong

Vào năm 1889 là một dấu mốc đánh dấu cho một bước ngoặt lớn của lịch sự phát triển ngành ô tô thế giới. Khi đó, nhà phát minh Gottlieb Daimler và Wilhelm Maybach tại Đức đã cho ra đời dòng xe ô tô chạy bằng xăng. Nhanh gấp 1,5 lần sức ngựa, hai xi lanh hộp số 4 tốc độ.

Tốc độ tối đa xe có thể đạt được là 10 dặm/giờ. Đến đây, những cỗ xe chạy bằng ngựa bắt đầu bị khai tử và nhường lại chỗ cho dòng xe hơi thế hệ mới chạy bằng động cơ xăng. Cùng thời điểm đó, người ta liên tục được chứng kiến những dòng xe hơi chạy bằng xăng ra đời. Mỗi lần xuất hiện loại xe này càng được nâng cấp về tốc độ cũng như thiết kế. Tại Đức, người dân vô cùng hào hứng với những chiếc xe được trang trí lộng lẫy, đắt tiền mang thương hiệu Cadillac, Pascal

Xe hơi chạy bằng động cơ đốt trong

Lịch sử phát triển của ngành ô tô

Tính đến ngày hôm nay, lịch sử phát triển ngành ô tô đã trải qua hơn 200 năm hình thành và phát triển. Có thể thấy được rằng mỗi bước đi của ngành ô tô là mỗi bước ngoặt lớn của nền kinh tế thế giới.

Sản xuất được khôi phục sau chiến tranh

Chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc vào ngày 15 tháng 8 năm 1945. Những tổn thất được ước tính sau chiến tranh lên đến 105,7 tỷ yên, tương đương với GNP của Nhật Bản cho năm 1946. So với một số ngành công nghiệp khác, ngành Công nghiệp ô tô ở Nhật Bản không gặp nhiều thiệt hại trực tiếp từ chiến tranh. Tuy nhiên, do thép và các vật liệu khác rất khan hiếm, sản xuất đã giảm đi 50% vào cuối chiến tranh.

Để đáp ứng mong muốn của các nhà sản xuất ô tô để tiếp tục sản xuất, và với quá trình tái thiết hậu chiến tạo ra nhu cầu ngày càng tăng về xe tải cho giao thông vận tải, GHQ (Tổng công quân đoàn của Các nước đồng minh) đã cấp phép từ năm 1945 cho đến 30 công ty khác nhau để tham gia sản xuất xe tải.

Giai đoạn hình thành xe hơi chạy bằng hơi nước

Bắt đầu từ những năm 1770, khi nhà phát minh Nicolas Joseph Cugnot cho ra đời chiếc xe hơi chạy bằng nước. Đây là một chiếc xe 3 bánh vận hành bằng hơi nước với tốc độ 2,3 dặm/giờ. Tuy nhiên, chiếc xe này lại không nhận được quá nhiều sự hưởng ứng bởi vì nó quá chậm chạp và nặng nề hơn so với chiếc xe ngựa tại thời điểm đấy.

Giai đoạn phát triển xe hơi chạy hơi nước

Sau đó một khoảng thời gian, có một nhà phát minh người Phát có tên Amedee Bollee đã cho ra đời dòng xe hơi với sức chứa 12 chỗ ngồi. Mặc dù vậy, động cơ hơi nước vẫn không thể nào chiến thắng được chiếc xe ngựa kéo. Cũng chính vì lý do đó mà nó dần dần đi vào lãng quên và không còn ai đề cập đến.

Thành lập Chính sách Công nghiệp ô tô toàn diện

Nhiều chính sách công nghiệp đã được thúc đẩy trong thập niên 1930 cho ngành công nghiệp đang phát triển.

Năm 1930, một cơ quan tư vấn của Bộ Công Thương và Công Nghiệp đã trình báo rằng “chính phủ nên thiết lập các chính sách bảo vệ thích hợp để hỗ trợ cho sự phát triển toàn diện của ngành công nghiệp ô tô”. Kết quả là, Hội đồng Thành lập Ngành Công nghiệp Ô tô trong nước được thành lập vào tháng 5 năm 1931, với việc đưa ra các thông số kỹ thuật cho “Mẫu Ô tô tiêu chuẩn của Bộ Công Thương và Công Nghiệp”, yêu cầu sản xuất xe tải và xe buýt trung bình có trọng tải từ 1,5 đến 2 tấn theo các thông số kỹ thuật của nó.

Năm 1932, Công ty Điện và Khí đốt Tại Tokyo, Nhà Máy Ô tô Ishikawajima và Nhà Máy Ô tô Dat đã cùng sản xuất một chiếc ô tô thử nghiệm có tên là “Isuzu”. Trong tháng 6 cùng năm, ba công ty này đã thành lập Hiệp hội Ô tô Trong nước, tổ chức sản xuất ô tô đầu tiên của Nhật Bản. Vào tháng 4 năm 1937, những công ty này đã sáp nhập để thành lập Công ty Tokyo Motor Co., Ltd., trở thành tiền thân của Isuzu Motors và Hino Motors.

Nhập Khẩu và Bán Hàng Ô tô Bởi Các Công Ty Thương Mại Nước Ngoài

Đại lý ô tô đầu tiên tại Nhật Bản là Công ty Locomobile của Mỹ, chuyên nhập khẩu và bán xe hơi chạy bằng hơi nước của Locomobile. Năm 1901, đại lý này đã thành lập một showroom bán hàng tại Tokyo, mở ra cơ hội đầu tiên cho người Nhật có cơ hội nhìn thấy các mẫu ô tô trưng bày.

Komanosuke Uchiyama, người tiên phong của ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản.

Vào năm 1902, khoảng một năm sau khi xe ô tô xuất hiện lần đầu tiên tại Nhật Bản, một kỹ thuật viên 21 tuổi tên là Komanosuke Uchiyama, một nhân viên của cửa hàng bán xe đạp Sorinshokai ở Ginza, đã sản xuất hai chiếc ô tô thử nghiệm. Một chiếc là xe ô tô chạy bằng xăng có động cơ được đưa từ Mỹ bởi Shintaro Yoshida, một quản lý tại Sorinshokai, với khung và thân xe được chính Uchiyama tự mình lắp ráp.

Sự giảm phát, sa thải và tranh chấp lao động

Như một hậu quả của chính sách tài chính và ngân hàng chặt chẽ được áp dụng dưới sự hướng dẫn của GHQ để đàn áp xu hướng lạm phát do hậu quả của chiến tranh, Nhật Bản đã bị đánh đòn mạnh với một cuộc suy thoái lớn vào năm 1949, gây tổn thất nghiêm trọng cho ngành công nghiệp ô tô. Các nhà sản xuất ô tô buộc phải cắt giảm lương và triển khai chính sách sa thải, và từ tháng 6 năm 1949 đến tháng 6 năm 1950 đã sa thải 23% lượng lao động (6.200 người). Trong những điều kiện khó khăn này, các công đoàn lao động đối mặt việc quản lý nhận sự và tất cả các nhà sản xuất lớn đều bị đình công kéo dài nhất trong lịch sử lao động Nhật Bản.

Để giúp thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô và việc triển khai các công nghệ ô tô, Bộ Công thương và Công nghiệp đã giới thiệu các bài kiểm tra hiệu suất vào năm 1947 cho các phương tiện được sản xuất trong nước, và vào tháng 6 năm 1951 Luật Xe cơ giới đã được thông qua. Mục đích của luật này là thúc đẩy an toàn ô tô bằng việc yêu cầu các nhà sản xuất đăng ký chính thức với Bộ Giao thông vận tải cho mỗi loại phương tiện mới được sản xuất (cùng một hệ thống phê duyệt loại tương tự cũng được áp dụng cho các phương tiện nhập khẩu). Hai biện pháp này đã đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện chất lượng các loại xe được sản xuất trong nước.

Chính sách sản xuất ô tô của GHQ

Sau khi khôi phục sản xuất, sản xuất xe tải không phát triển như dự kiến, do gặp khó khăn trong việc mua linh kiện và nguyên liệu mới, chất lượng không đồng đều, giới hạn về sử dụng điện và thường xuyên xảy ra sự cố về điện, và nhiều yếu tố khác. Để tồn tại qua giai đoạn chuyển tiếp khó khăn này, các nhà sản xuất ô tô bắt đầu sản xuất thiết bị nông nghiệp, dụng cụ và chảo chống dính để đảm bảo sinh kế cho các công nhân với mức lạm phát chưa từng có và khó khăn trong việc đảm bảo nguồn cung các nhu yếu phẩm cần thiết cũng như khan hiếm nhà ở. Nhà tuyển dụng thậm chí phải cấp “kỳ nghỉ ăn uống” cho nhân viên có cơ hội tìm kiếm lương thực thực phẩm.

Cùng với sự phát triển của việc tái thiết kế, khát khao sản xuất của các nhà sản xuất ô tô và bộ phận phụ tùng ô tô cũng tăng lên. Để đáp ứng, vào tháng 6 năm 1947, GHQ cho phép sản xuất các loại xe hơi hạng nhỏ (dưới 1500cc), giới hạn sản xuất 300 đơn vị mỗi năm. Cùng lúc đó, để giúp chống lại tình trạng thất nghiệp khổng lồ, Quân đội Mỹ đã yêu cầu các nhà sản xuất ô tô tiến hành sửa chữa các phương tiện của mình bị hư hỏng. Điều này giúp các nhà sản xuất ngăn chặn dòng chảy của những khoản lỗ và cung cấp cho họ cơ hội nghiên cứu phương pháp làm việc và kỹ thuật sửa chữa được thực hành bởi người Mỹ.