Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Chọn lớpLớp 1Lớp 2Lớp 3Lớp 4Lớp 5Lớp 6Lớp 7Lớp 8Lớp 9Lớp 10Lớp 11Lớp 12 Lưu và trải nghiệm
Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Chọn lớpLớp 1Lớp 2Lớp 3Lớp 4Lớp 5Lớp 6Lớp 7Lớp 8Lớp 9Lớp 10Lớp 11Lớp 12 Lưu và trải nghiệm
Vì là một trường đại học công lập, nên học phí tại Đại học Sư phạm Đà Nẵng được quy định bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mức học phí của Đại học Sư phạm Đà Nẵng trong năm học 2018 - 2019 được quy định cụ thể như sau:
Chi phí học phí chương trình đại tràNăm học 2018-2019 : 9.600.000(đồng/năm/SV)Năm học 2019-2020 : 10.600.000(đồng/năm/SV)Năm học 2020-2021 : 11.700.000(đồng/năm/SV)
Chi phí đại học chương trình chất lượng cao- Mức học phí của Chương trình chất lượng cao: bằng 2,5 lần mức học phí chương trình đại trà. Sinh viên học trong 2 học kỳ chính (I và II) và đóng học phí theo học kỳ. Học phí học tiếng Anh (học trong 2 năm đầu) tính riêng.Năm học 2018-2019 : 24.000.000(đồng/năm/SV)Năm học 2019-2020 : 26.500.000(đồng/năm/SV)Năm học 2020-2021 : 29.250.000(đồng/năm/SV)
Đại học Sư phạm Đà Nẵng là một trường đại học công lập, chuyên tuyển sinh vào các ngành thuộc lĩnh vực sư phạm và nổi tiếng với việc đào tạo giáo viên tại khu vực Đà Nẵng. Trường hiện có hơn 30 ngành sư phạm và nhiều ngành học khác để sinh viên lựa chọn. Thí sinh cần xem điểm chuẩn của từng ngành trước khi nộp hồ sơ để có cơ hội trúng tuyển cao nhất.
Đây là mức học phí chính thức của Đại học Sư phạm Đà Nẵng trong năm học 2019 - 2020, do nhà trường công bố. Sinh viên hoàn toàn có thể yên tâm đăng ký theo học. Ngoài học phí của trường này, sinh viên cũng có thể theo dõi học phí của một số trường đại học khác như đại học Ngoại ngữ Đà Nẵng, đại học Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng...
- Chi phí học phí Đại học Ngoại Ngữ Đà Nẵng- Chi phí học phí Đại học Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng
Chúc bạn đỗ vào Đại học Sư phạm Đà Nẵng năm 2019!
Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc khách hàng và chỉ dành cho khích lệ tinh thần trải nghiệm du lịch, chúng tôi không chịu trách nhiệm và không đưa ra lời khuyên cho mục đích khác.
Nếu bạn thấy bài viết này không phù hợp hoặc sai sót xin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email [email protected]
Mỗi một quốc gia đều có những chính sách riêng để hỗ trợ giáo viên nhưng nhiều nước không có chính sách tài chính riêng cho sinh viên sư phạm.
Tất cả sinh viên đều được tham gia tín dụng sinh viên với lãi suất thấp và một số được cấp học bổng tùy theo điều kiện của mỗi chương trình hỗ trợ.
Để thu hút người giỏi trở thành giáo viên, các nước như Hàn Quốc, Phần Lan, Singapore, Hongkong tuyển sinh đầu vào gắt gao và trả lương cao cho giáo viên đương chức (Mc Kinsey, 2007).
Các quốc gia đều nhận thức rằng, giáo viên có vai trò quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Tùy theo thực trạng và tình hình phát triển của giáo dục và khả năng kinh tế mà mỗi nước có chính sách riêng cho nhà giáo.
Hầu hết các chính sách tài chính nhằm thu hút, hỗ trợ những giảng viên, giáo viên đương nhiệm ở các vùng khó khăn, đã phục vụ cho ngành trong 1 khoảng thời gian nhất định.
Để duy trì đội ngũ giáo viên có chất lượng, nhiều nước trả lương giáo viên cao, có chính sách phát triển giáo viên hiệu quả và tuyển sinh đầu vào ngành sư phạm gắt gao.
Chương trình hỗ trợ tài chính chỉ dành riêng cho sinh viên sư phạm không có nhiều, thông tin từ Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Việt Nam cho thấy, một số chính sách tài chính hỗ trợ sinh viên sư phạm đang được thực hiện ở một số quốc gia như sau:
Tại Mỹ, để thu hút người giỏi trở thành giáo viên và duy trì đội ngũ giáo viên có năng lực ở những vùng thiếu hụt giáo viên, Mỹ đang duy trì một số chương trình hỗ trợ tài chính mà các sinh viên sư phạm có thể thụ hưởng.
Chương trình TEACH trợ cấp cho các sinh viên cam kết sẽ dạy học ở những vùng khó khăn trong vòng 4 năm. Chương trình Stafford xóa nợ cho sinh viên với mức tối đa là 17.500 USD nếu sinh viên cam kết dạy một số một học theo yêu cầu ở những trường vùng khó khăn trong vòng 5 năm liên tục.
Chương trình xóa nợ cho những người làm việc trong khu vực dịch vụ xã hội (Public Service Loan Forgiveness -PSLF) xóa bỏ toàn bộ các khoản tín dụng sinh viên cho những người đã làm việc trong khu vực dịch vụ xã hội từ 10 năm trở lên và do vậy giáo viên là người được hưởng lợi từ chương trình này. Ngoài ra mỗi bang có chính sách hỗ trợ tài chính riêng cho sinh viên.
Ở Mỹ, không có trường đại học sư phạm. Tất cả các khoa có chương trình đào tạo giáo viên đều trực thuộc một trường đại học nào đó.
Thời gian của chương trình đào tạo giáo viên tiểu học là 2 năm, cả thời gian học trên lớp và thời gian đi thực tập.
Nếu ai muốn dạy trung học cơ sở hay trung học phổ thông thì phải học thêm vài môn nữa cho chuyên môn mình dạy.
Ví dụ dạy Vẽ, dạy Sử hay dạy Toán thì học thêm môn Vẽ, Sử hay Toán.
Thông thường có ít nhất 3 Field work /lần đi thực tập. Thường mọi người chọn trường gần nhà hay trường có người quen biết hay trường ở quận (school district) tốt.
Trong quá trình thực tập hoặc kỳ cuối sư phạm trước khi ra trường, sinh viên có thể xin đi làm lấy kinh nghiệm: làm giáo viên dạy thế (substitute teacher). Thường mỗi ngày được khoảng 75-95USD tùy từng trường.
Theo lối truyền thống, giáo viên ở Mỹ được đào tạo 4 năm năm đại học chuyên ngành và sau đó học 2 năm sư phạm lấy bằng Thạc sĩ và phải thi chứng chỉ hành nghề.
Tuy nhiên hiện nay ở một số bang của Mỹ đang áp dụng phương thức đào tạo giáo viên kiểu mới, không cần bằng cấp mà đào tạo qua thực tiễn tại các trường phổ thông. Chương trình và chứng chỉ này sẽ được phê duyệt và chứng thực bởi chính quyền bang.
Nói cách khác thì các chương trình chứng chỉ đào tạo giáo viên này có thể khác nhau ở các trường nhưng đều hướng đến việc giảm nhẹ gánh nặng bằng cấp và tập trung nhiều hơn cho việc tạo ra những giáo viên giỏi về kinh nghiệm giảng dạy thực tế.
Tại Anh, để thu hút sinh viên vào học sư phạm thông tin hướng dẫn trở thành giáo viên rất phổ biến. Tuy nhiên, chính sách tài chính đối với sinh viên sư phạm không khác biệt so với sinh viên học các ngành khác. Sinh viên sư phạm phải đóng học phí và được tham gia các chương trình hỗ trợ tài chính sinh viên.
Theo trang Web của Bộ Giáo dục Anh (https://getintoteaching.education.gov.uk/funding-and-salary), có 4 dạng công cụ tài chính chủ yếu hỗ trợ sinh viên sư phạm:
- Học bổng tài năng được cấp cho những người học có kết quả học tập từ khá (60-69%) trở lên và dạy một số môn học theo yêu cầu.
- Học bổng theo vị thế tài chính được cấp cho sinh viên một số ngành và mức học bổng tùy thuộc vào nhu cầu tài chính của sinh viên.
- Tín dụng sinh viên được cấp cho mọi đối tượng.
- Đối với sinh viên sư phạm có thể tham gia chương trình nhận lương trực tiếp từ trường mà họ thực tập dạy học.
Tại Pháp, đào tạo giáo viên nối tiếp (4 năm đại học chuyên ngành + 2 năm sư phạm). Khi sinh viên học ngành sư phạm cũng đã được coi như là thực tập sinh. Họ theo sát trường phổ thông và được hỗ trợ kinh phí (lương cho người học việc).
Để trở thành giáo viên chính thức người học phải ở trình độ thạc sĩ và vượt qua kỳ thi sát hạch (chứng chỉ hành nghề).
Pháp cũng như nhiều quốc gia Châu Âu khác, ưu tiên người bản địa trong đào tạo đại học.
Trường công lập miễn học phí cho công dân. Với những trường phải đóng học phí thì khi công dân 18 tuổi có kết quả đỗ đại học sẽ được vay tiền ngân hàng để đi học và được hỗ trợ một khoản nhỏ thuê nhà.
Tại Đức, suốt quá trình học Đại học (tất cả các chuyên ngành ở Đức trong đó có sư phạm), ở hầu hết các tiểu bang, sinh viên không phải trả tiền học phí. Sinh viên chỉ phải trả tiền lệ phí hành chính (lệ phí đăng ký) khoảng từ 100 đến 150 Euro/năm tùy theo từng trường.
Theo số liệu thống kê mới nhất vào năm 2016, chỉ còn một vài tiểu bang trong Cộng hòa liên bang Đức thu tiền học phí của sinh viên (khoảng 500 Euro/học kỳ).
Song sinh viên được miễn phí 4 học kỳ đầu, họ phải trả học phí từ học kỳ 5. Xu hướng sắp tới có thể miễn học phí đại học 100% trong toàn bộ Cộng hòa liên bang Đức.
Tại Úc, cũng có chính sách hỗ trợ cho công dân vay để trả học phí học đại học và sau đại học. Học phí đối với sinh viên bản địa thấp hơn nhiều so với học phí dành cho sinh viên quốc tế.
Trung bình mỗi năm, quốc gia này cần đến 130.000 nhân sự có trình độ chuyên môn, được đào tạo bài bản để gia nhập vào ngành giáo dục. Trong 3 – 5 năm tới, nhu cầu nhân lực sẽ còn tăng thêm.
Úc đứng thứ 4 trên thế giới về những đãi ngộ dành cho nhà giáo được đánh giá theo tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) 2015.
Trung bình mức lương của những người làm trong lĩnh vực Giáo dục đào tạo có thu nhập bình quân khoảng 65.000 AUD/năm.
Theo VU Australian Graduate Survey, có đến 93% sinh viên quốc tế Úc tốt nghiệp khóa cử nhân ngành Giáo dục tìm được việc làm ưng ý trong vòng 4 tháng đầu sau tốt nghiệp.
Tại Singapore, Bộ Giáo dục Singapore rất thận trọng trong tuyển chọn những giáo viên tiềm năng từ số học sinh thuộc nhóm dẫn đầu về thành tích học tập sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.
Ngoài thành tích học tập, người học được tuyển chọn phải có sự yêu thích, cam kết gắn bó với công việc giảng dạy. Các giáo viên tiềm năng này trong thời gian đào tạo sẽ được hưởng mức trợ cấp tương đương 60% lương của giáo viên chính thức.
Tuy nhiên, vì được hưởng quyền lợi này nên họ cũng phải cam kết sẽ tham gia giảng dạy trong ít nhất 3 năm sau khi chính thức vào nghề.
Tại Hàn Quốc, Hàn Quốc trước đây miễn học phí cho sinh viên sư phạm. Hiện nay đã áp dụng thu học phí nhưng có rất nhiều học bổng để thu hút sinh viên giỏi vào sư phạm. Khoảng 40% sinh viên sư phạm được nhận học bổng.
Tại Trung Quốc, một cuộc khảo sát trên toàn quốc (2007) cho thấy, các trường học ở nông thôn Trung Quốc thiếu khoảng 43% giáo viên.
Con số thống kê cũng cho biết, trình độ giáo viên ở khoảng 310 nghìn trường tiểu học và trung học cơ sở không đạt chuẩn quốc gia. Trung Quốc có 500 nghìn giáo viên ngắn hạn không được đào tạo bài bản và 75% trong số họ làm việc ở các vùng nông thôn kinh tế chưa phát triển, chủ yếu nằm ở miền tây và miền trung nước này.
Chính vì lý do đó, Trung Quốc áp dụng chính sách miễn học phí cho sinh viên sư phạm đặc biệt dành cho những khu vực thiếu giáo viên.
Theo chính sách này, Nhà nước sẽ chi khoảng 10 nghìn NDT/năm (20 triệu đồng) cho mỗi sinh viên sư phạm, tức là tổng cộng 110 triệu NDT (220 tỷ đồng) cho 11 nghìn sinh viên. Đó là sinh viên thuộc sáu trường đại học sư phạm ở các thành phố Bắc Kinh, Trường Xuân, Vũ Hán, Thượng Hải, Tây An và Trùng Khánh.
Chính sách này đã thu hút nhiều học sinh trung học ở nông thôn đăng ký theo học ngành sư phạm hơn. Số đối tượng này chiếm đến 60,2% số đơn đăng ký ngành sư phạm, tăng 16,3% so với năm trước đó.
Tại Cu Ba, đất nước này thực hiện chính sách như nước ta thời bao cấp, sinh viên sư phạm được miễn học phí, sinh hoạt phí và bố trí công việc sau khi tốt nghiệp.