Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cùng đoàn dâng hương tại Khu di tích Kim Liên.
Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cùng đoàn dâng hương tại Khu di tích Kim Liên.
Đại hội Đại biểu Phật Giáo toàn Quốc, Giáo Hội – Phật Giáo Việt Nam lần thứ 8, đã suy tôn Đại Lão – Hòa Thượng Thích Thanh Từ, chính thức giữ ngôi vị Phó Pháp Chủ Hội Đồng Chứng minh Giáo Hội – Phật Giáo Việt Nam. Đại hội được tổ chức vào tháng 11 năm 2017.
Đại Lão – Thiền Sư – Hòa Thượng Thích Thanh Từ, hiện tại vẫn còn sống, nhưng vì tuổi của Sư Cụ khá cao, nên sức khỏe Cụ có phần rất yếu, vì do bệnh tuổi già. Cả một đời Cụ đã chu du trên toàn thế giới, để truyền bá tư tưởng Phật Pháp, và thành lập vô số những Thiền Viện, để làm nơi giảng dạy, những phương pháp Tu hành cho các Tăng – Ni, Phật tử trong và ngoài nước. Tổng số Phật tử đã phát tâm quy y với Hòa Thượng là, 84.860 người, trong số đó có 9.600 người ngoại Quốc và 175.260 người trong nước.
Rằm tháng tư năm Mậu Thân (1968), với tuyên bố nhập thất vô hạn định của Thiền Sư Hòa thượng Thích Thanh Từ, một lời nhất ngôn cửu đỉnh: “ Thệ không xuất thất, nếu đạo không minh.” Thế là khép đôi cánh cửa sài, toàn thể môn nhân một lòng mong đợi, quy ngưỡng lên non.
Tháng 7 năm 1968, Thiền sư đã liễu đạt lý sắc không, thấu suốt Bát Nhã thật tướng. Trông qua Tạng kinh từ con mắt Bát – Nhã, đã được khai thông lời Phật, ý Tổ. Thâm ý nhà Thiền trong Giáo lý Ðại thừa, đã được Thầy Thích Thanh Từ khám phá từ công phu Thiền Định của Thầy.
Đúng ngày mùng 8 tháng 12 năm 1968, Thiền Sư – Thích Thanh Từ tuyên bố xuất thất, giữa bao niềm hân hoan của hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử trên toàn Quốc. Nước cam lộ từ đây rưới khắp, suối từ bi trong vắt độ phàm nhân. Thất Pháp Lạc, xứng đáng là một linh hồn của Dòng Thiền Chân Không. Đánh dấu một giai đoạn chuyển mình, chính tại nơi đây, một bước ngoặc lớn, trong cuộc đời Tu hành của một vị Thiền Sư. Hoài bão Tu Thiền của Thầy, đã thai nghén bao năm trong đơn độc và thầm lặng, đến đây mới thật sự có điểm khởi phát và lớn dậy, để Phật Giáo – Việt Nam sau này, vinh dự đón nhận một ngôi sao sáng, trang lịch sử, Thiền sử Việt Nam khai mở, huy hoàng rực rỡ nhất vào cuối thế kỷ 20.
Tôi là kẻ nợ của Tăng – Ni và Phật tử, Thiền sư nói, ai biết đòi thì tôi trả trước, còn ai chưa biết đòi thì tôi sẽ trả sau. Cả cuộc đời Thầy, đã dốc hết sức mình để tìm ra chính Pháp, đặc biệt, là Thầy đã làm hồi sinh lại Dòng Thiền Tông đã bị mai một, từ Cổ Triều – Phật Hoàng – Trần Nhân Tông. Tạo điều kiện cho Tu Hành tinh tiến cho các Tăng Ni, thì Phật Pháp mới ngày càng lớn mạnh được. Niềm vui của Thầy, là hàng ngày thấy Tăng – Ni Tu hành tiến bộ, Hòa Thượng nói: Thầy gửi gắm hoài bão của Thầy, vào hết sự Tu tập nỗ lực của các con. Tăng – Ni Tu có niềm vui việc lớn được sáng, đó là biết thương, tưởng nhớ đến ta, bằng ngược lại thì Thầy thật là chưa đủ phúc, để được vui trước khi ta về với Phật. Bởi vì Thiền Tông – Việt Nam, là nguyện vọng khôi phục của Thầy, đặc biệt, là khôi phục Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, từ Cổ Triều – Phật Hoàng – Trần Nhân Tông, tâm nguyện của ta vẫn chưa được thành tựu.
Đại Lão Thiền Sư Hòa Thượng Thích Thanh Từ, đã từng làm rất nhiều chức vụ quan trọng, trong Giáo Hội Phật Giáo, từ năm 1960 đến năm 1964, cụ thể như những chức vụ: Phó Vụ Trưởng Phật học vụ, Giáo Sư kiêm Quản Viện Phật học Huệ Nghiêm, Vụ trưởng Phật học vụ, Giảng Sư Viện Đại học Vạn Hạnh và các Phật học đường Từ Nghiêm, Dược Sư…
Sau lễ hoàn khóa, Cao Trung chuyên khoa tại Huệ Nghiêm và Dược Sư, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã xin phép Tổ Thiện Hoa được về ẩn tu trên núi. Khi này Thầy đã thật sự giã từ phấn bảng, giã từ Phật học viện, vì tứ chúng Thầy đã miệt mài cùng năm tháng, thế nhưng “Tăng Ni” hai tiếng vẫn xoáy sâu vào lòng Thầy, để sau này “Thầy Trò” lại gặp nhau, chút duyên ấy thêm càng son sắt trên đỉnh Tương Kỳ.
Thiền Sư – Hòa Thượng Thích Thanh Từ, vào tháng tư năm 1966, đã dựng Pháp Lạc Thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Ngôi Thất lá, bốn thước đơn sơ vuông vức, với bộ Ðại Tạng Kinh, thế nhưng, một Thiền tăng nghèo đã ấp ủ, quyết nhận lại cho kỳ được, một hạt châu vô giá của chính bản thân mình.
Đại Lão – Thiền Sư – Hòa Thượng Thích Thanh Từ, có tên tục là Trần Hữu Phước, tên Pháp Danh là Thích Thanh Từ, sau này Thầy đổi lại tên húy là Trần Thanh Từ. Thầy sinh vào ngày hai tư tháng bảy năm 1924, tại quê hương, Ấp Tích Khánh, Xã Thiện Mỹ, Huyện Trà Ôn, Tỉnh Cần Thơ xưa, nay thuộc Tỉnh Vĩnh Long. Thân Phụ của Thầy là ông Trần Văn Mão, Thân Mẫu là bà Nguyễn Thị Đủ, Thầy sinh ra và lớn lên tại quê hương Vĩnh Long, Việt Nam. Thân phụ của Thầy, theo nghiệp Nho từ khi còn nhỏ, giữ nếp sống giản dị, thanh cao, ông là một tín đồ của đạo Cao Ðài. Mẫu Thân của Thầy là bà Nguyễn Thị Ðủ, quê quán ở Làng Thiện Mỹ, Quận Trà Ôn, Tỉnh Vĩnh Long. Bà Nguyễn Thị Ðủ là một người chân chất hiền lành, làm ăn tần tảo, sớm tối tận tụy, hy sinh cả đời vì chồng vì con.
Thiền Sư – Hòa thượng Thích Thanh Từ, tuy là Thầy sinh ra trong một gia đình có hoàn cảnh khó khăn cơ hàn, thế nhưng Thầy đã vượt lên chính mình, với những tố chất nổi bật riêng ngay từ khi còn thơ ấu, Thầy thích đọc sách, có chí xuất trần, trầm tính và ít nói, đặc biệt là Thầy hết lòng hiếu thảo với Phụ Mẫu, và thường xuyên đi làm việc thiện.
Năm Thầy lên 9-10 tuổi, Phụ Thân cho Thầy đi cùng lên Mốp Văn, Long Xuyên để thọ tang một người bác thứ 3 trong gia đình, Thầy Thích Thanh Từ lần đầu tiên được theo Cha đến thăm Chùa Sân Tiên, ở tận trên núi Ba Thê, để làm lễ cầu siêu cho bác. Nghe tiếng chuông chùa ngân vang cô tịch, giữa khoảng thinh không, duyên xưa gặp lại, tự bao giờ, như có một nỗi niềm giao cảm, đã khiến Hòa Thượng rung động, người bất thần xuất khẩu thành thơ:
Non đỉnh là nơi thú lắm ai, Cảnh đó nhàn du của khách tài.
Tiếng mõ công phu nhân tỉnh giấc, Văng vẳng chuông hồi quá bi ai.
Chí xuất trần của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, có thể nói rằng, từ đây đã nổi dậy. Thầy theo dòng đời chìm nổi và nhất là trong cuộc sống thời loạn lạc, Hòa Thượng thêm đau xót và thấm thía những nỗi thống khổ tận cùng của con người. Vì thế chí xuất trần của Đại lão Hòa Thượng càng thêm mãnh liệt hơn. Tâm niệm của Thầy luôn ấp ủ là, nếu tôi không thể làm một viên đan dược thần kỳ, để cứu tất cả các căn bệnh cho chúng sinh, thì ít ra tôi cũng là một viên thuốc bổ, có thể giúp ích cho nhiều người bớt khổ. Hữu quả ắt hữu nhân, cánh cửa Thiền Môn đã hé mở, con đường sáng đã đón Thầy rẽ sang từ hôm đó.
Hòa Thượng đã đến Chùa Phật Quang, làm công quả được 3 tháng, vào đúng ngày rằm tháng 7 năm 1949, khi nghe tiếng mõ tiếng chuông thúc giục và Thiền môn đã mở cánh cửa đón chào, Thầy quỳ lạy xin phép Phụ Mẫu cho mình đi xuất gia. Được Cha Mẹ đồng ý, nên Thầy Thích Thanh Từ thấy trong lòng vui mừng hớn hở, Thầy quay trở lại Chùa Phật Quang chính thức xuống tóc xuất gia, và được Sư Tổ Thiện Hoa, ban cho Thầy pháp danh là Thanh Từ. Khi ước nguyện bấy lâu của Thầy đã thành hiện thực, từ đó, Thầy theo Tổ công phu bái sám siêng năng, vừa học giáo lý, vừa dạy các em nhỏ những bài giảng về Phật pháp. Ngoài ra, Thầy còn Phụ Sư Tổ trong chùa, chăm sóc, trông nom hàng chục chú tiểu. Tuy công việc khá nhiều, nhưng Thầy vẫn để tâm học những bộ Kinh Thư.